Phật giáo tôn trọng tất cả tôn giáo bạn, kể cả những tôn giáo công nhận có Thượng Đế tạo thế. Đó là đường lối thuỷ chung như nhất của Phật giáo từ xưa đến nay, ở nước ta cũng như ở các nước Phật giáo khác. Tính bao dung về mặt tư tưởng vốn là một đặc tính của Phật giáo mà các nhà tôn giáo học trên thế giới đều công nhận, nhưng điều này không có nghĩa là Phật giáo chấp nhận, không phản đối một số quan điểm của những tôn giáo đó về vũ trụ và nhân sinh.
PHẬT GIÁO DÙNG THUYẾT NGHIỆP THAY CHO THUYẾT SỐ MỆNH
ĐỊNH NGHĨA NGHIỆP LÀ GÌ?
Nghiệp là hành động có dụng tâm, hành động mà không có dụng tâm thì không phải là nghiệp theo đúng nghĩa của từ này. Một người lái xe không cẩn thận, cán chết người, người đó có thể mang tội ngộ sát, phải trả tiền bồi thường và ngồi tù. Nhưng thật ra, anh ta không có tạo nghiệp sát sinh, anh ta chỉ là một cái duyên, hay là một điều kiện để người bị cán chết trả một món nợ cũ, một cái nghiệp cũ, khiến anh ta bị cán chết. Lạnh lùng mà nói, tình hình đích thực là như vậy, nếu chúng ta có một nhận thức sâu sắc về thuyết nghiệp. Trong đời này, không có gì xảy ra một cách ngẫu nhiên hết, mọi sự việc, quá trình xảy ra đều có nhân duyên của nó. Có đủ nhân, đủ duyên và đúng thời, từ sự việc xảy ra tốt hay xấu, lành hay dữ, may mắn hay bất hạnh. Mọi sự việc xảy ra đều tương ứng với nhân duyên. Nhưng đây là nghiệp chứ không phải là số mệnh.
DẪN NGHIỆP VÀ MÃN NGHIỆP- HAI LOẠI NGHIỆP QUAN TRỌNG
Nghiệp có nhiều loại, nhưng Phật giáo thường chú ý hai loại chính la dẫn nghiệp và mãn nghiệp. Dẫn nghiệp là nghiệp dắt dẫn chúng sanh đi vào một trong sáu cõi, trong số này có ba cõi thiện là cõi loài trời, cõi loài A-tu-la và cõi loài người. Và ba cõi ác là cõi loài người rất nhiều, mắt ta không thấy họ, nhưng không phải là không tồn tại. Dân gian không biết, gọi họ bằng đủ các thứ tên như thần, tiên, quỷ….Trong các loại chúng sanh sống ở cõi ác, co hai loại mắt người không thấy được là chúng sanh loài quỷ đói và chúng sanh loài địa ngục. Loài quỷ đói là loài chúng sanh do cấu tạo sinh lý (bụng rất to, nhưng cổ họng rất bé) cho nên luôn luôn bị đói. Chúng sanh ở địa ngục thì bị khổ triền miên, khổ ở mức loài người không tưởng tượng nổi. Còn súc sanh thì rất nhiều loại, không thể biết xuể được, nhưng chúng có đặc tính chung là hay cấu xé lẫn nhau, trừ một số trường hợp ngoại lệ. Loại súc sanh quen thuộc nhất là gia súc như chó, mèo, gà, lợn, ngựa, trâu. Chúng nó sống khổ thế nào, chúng ta đều biết. Nhưng có điều nhiều người không biết là nếu không sống thiện, không tu tập và sống lối sống ngu si như súc vật thì sau khi chết, chúng ta có thể tái sanh, và làm súc vật. Rất có khả năng đó, chúng ta không thể xem thường.
Cho nên, ít nhất chúng ta phải biết cơ chế vận hành của nghiệp, đặc biệt là loại nghiệp gọi là dẫn nghiệp. Mục đích là dùng cơ chế vận hành của nghiệp để cuộc sống chúng ta có ý nghĩa, để cho chúng ta chủ động tạo ra những nghiệp có cường độ mạnh để cho đời này cũng như ở các đời sống sau, chúng ta không bị đoạ vào các cõi ác, khổ và luôn tái sanh vào các cõi lành, cõi thiện, dẫn chúng ta đến mục đích cao nhất là giác ngộ và giải thoát.
Vì dẫn nghiệp quyết định hướng tái sanh, cho nên cũng có tên gọi là tái sanh nghiệp, với tiếng Anh tương đương là reproductive kamma. Kamma là tiếng P li nghĩa là nghiệp, còn tiếng Sanskrit tương đương là karma, một từ mà sách Tây Phương rất hay dùng để chỉ nghiệp.
Tái sanh nghiệp hay dẫn nghiệp là những hành động tạo nghiệp có cường độ mạnh hoặc thiện hay bất thiện, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh cũng như những sự kiện chủ yếu ở đời sau của chúng sanh đó. Sau đây, tôi xin đưa vài ví dụ minh hoạ, trước hết những hành động tạo nghiệp cực ác, quyết định không tránh khỏi hướng tái sanh của một chúng sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói, súc sanh. Đó là các hành động cố ý giết cha mẹ, bậc Thánh A-la-hán, làm chảy máu Phật và phá sự hoà hợp của Tăng chúng. Nếu phạm vào một trong năm nghiệp ác nói trên, thì nhất định phải tái sanh vào cõi sống ác, khổ. Năm trường hợp nói trên là những trường hợp cực đoan, còn nói chung sống buông thả, không giữ năm giới, không làm điều thiện thành thói quen, với tâm ác không biết sửa chữa đều có nguy cơ sanh vào một trong ba cõi ác là địa ngục, quỷ đói và súc sanh, và dù có may mắn được tái sanh làm người thì sẽ là người sống bất hạnh như chết yểu, tật nguyền, hay ốm đau bị người đời khinh rẻ,…
CƯỜNG ĐỘ CỦA NGHIỆP QUYẾT ĐỊNH Ở CHỖ DỤNG TÂM
Yếu tố gì tạo ra cường độ mạnh của nghiệp, khiến cho nghiệp đó quyết định hướng tái sanh của chúng sanh đó. Chủ yếu là dụng tâm khi tạo nghiệp. Thí dụ tạo nghiệp sát với tâm tham, tâm sân. Gần đây trên báo đăng vụ giết người ở cửa hàng vàng Kim Sinh (Hà Nội). Kẻ cướp đã giết bốn mạng người một lúc để cướp vàng, đó là thí dụ sát sanh vì lòng tham. Trên báo hằng ngày cũng từng đăng tin một cô gái chỉ vì ghen tức đối với người con riêng (một con bé năm tuổi) của chồng mình đã nhẫn tâm quẳng con bé đó xuống sông Hồng. Sát sanh với tâm sân giận và ghen tức là loại nghiệp rất mạnh, có thể khiến kẻ phạm tội đoạ vào cõi ác không tránh khỏi.
Đối với nghiệp thiện cũng vậy, cường độ của nghiệp thiện chủ yếu do ở chỗ dụng tâm, chứ không phải do ở quy mô và hình thức của sự việc. Trong đạo Phật có câu: làm việc đạo với cái tâm đời, tức là tâm danh lợi, thì việc đạo biến thành việc đời, còn làm việc đời với tâm đạo, tức là cái tâm vì lợi ích của đạo và của chúng sanh, thì việc đời cũng biến thành việc đạo.
Quan điểm trên về nghiệp giải phóng những người nghèo hèn khỏi nỗi bức xúc của mình quá nghèo hèn, quá túng thiếu, muốn làm việc thiện, muốn giúp người nhưng không biét xoay sở thế nào.
Trong Kinh 42 Chương, có nói tới hạnh tuỳ hỷ bố thí. Đó là hạnh chia sẻ niềm vui với người khác. Nếu sự chia sẻ niềm vui đó là thật lòng, không chút gì ghanh ghét thì công đức của hạnh bố thí tuỳ hỷ đó cũng là vô lượng, cũng như một ngọn đuốc có thể giúp cho bao nhiêu nhà được thắp sáng, nấu chín cơm, sưởi ấm v.v… Mà để bố thí tuỳ hỷ có cần phải có gì đâu, mà chỉ cần có tấm lòng biết chia sẻ niềm vui của người khác mà thôi.
Đại Sư Trung Hoa Trí Khải trong bài tựa cuốn “Đồng Mông Chỉ Quán”, kể trường hợp một Sa-di trẻ ở cùng chùa một vị trụ trì đã chứng quả A-la-hán. Vị trụ trì chùa xem tướng học trò biết trong vòng một tuần nữa học trò mình sẽ chết bệnh, không thể tránh khỏi, bèn lẳng lặng cho học trò mình về thăm nhà. Anh học trò lên đường về nhà thấy một ổ kiến trên bờ đê đang bị một dòng nước xoáy hất vào bờ đê, đe doạ cuốn trôi đi. Thầy Sa-di trẻ động lòng thương lũ kiến đang nháo nhác, bèn cởi quần áo nhảy xuống sông, ra sức hàn lại chỗ đê có thể bị vỡ để cứu ổ kiến. Cứu được ổ kiến, thầy Sa-di về nhà và sau một tuần trở lại chùa. Vị A-la-hán thấy học trò mình trở lại chùa an toàn, khí sắc lại còn hồng hào hơn xưa, rất lấy làm lạ, bèn hỏi cặn kẽ đầu đuôi chuyện cứu ổ kiến. Vị trụ trì kết luận là do thầy Sa-di phát tâm từ bi rộng lớn cứu ổ kiến cho nên đã chuyển nghiệp, đáng lẽ phải chết trong vong một tuàn lại vẫn sống an toàn và còn tiếp tục sống thọ trong nhiều năm nữa.
Câu chuyện trên cũng tương tự chuyện một bà già ăn mày sống trong thời Phật muốn cúng dường Phật một ngọn đèn mà không đủ tiền để mua dầu. Đi ăn xin ky cóp mãi được một đồng,nhưng khi di dến cửa tiệm thì chủ tiệm lại nói một đồng không đủ để mua dầu thắp đèn. Nhưng vì chủ tiệm cảm lòng thành của bà già cho nên vẫn bán. Cuối cùng bà già cũng có được một ngọn đèn cúng dường phật, không phải đặt trong tịnh xá nơi Phật thuyết pháp mà chỉ được đặt ở ngoài vườn. Ấy thế mà sau buổi thuyết pháp của Phật, người ta đi dập tắt tất cả ngọn đèn trong nhà tịnh xá cũng như ở ngoài vườn, mọi ngọn đèn đều dập tắt dễ dàng, chỉ riêng ngọn đèn của bà ăn mày cúng Phật thì người ta thổi mãi, dập mãi mà không làm sao dập tắt được, kể cả ngài Mục-kiền-liên là học trò thần thông đệ nhất của Phật cũng bất lực. Được hỏi về sự kiện lạ lùng này, Phật nói đó là sức mạnh lớn lao của lòng chí thành cúng dường Phật cua r bà già. Với tâm thành lớn như vậy, thì dù cúng dường một ngọn đèn nhỏ cũng đem lại cho bà ấy công đức vô lượng, khiến cho chư thiên cũng cảm ứng, che cho ngọn đèn không bị dập tắt.
Trong lịch sử truyền đạo của đức Phật, cũng không hiếm chuyện minh chứng cho khả năng chuyển nghiệp của những người tuy từng phạm nhiều tội ác trong quá khứ nhưng sau khi được gặp Phật, được nghe pháp và thật thà ăn năn hối lỗi, cải tà qui chánh một lòng tin đạo và hành đạo, thì rồi ngay trong đời này cũng chứng được quả Thánh. Đó là trường hợp nổi tiếng của Angulimala, vốn là một tên tướng cướp tàn bạo của vương quốc Kosala, trường hợp của dâm nữ Ambapali ở Vaisali, cả hai đều xuất gia theo Phật, tu hành không bao lâu đều chứng quả Thánh A-la-hán.
Nói tóm một câu, dụng tâm là yếu tố quyết định tính chất và cường độ của nghiệp. Dụng tâm trong kinh tạng Pa li còn gọi là tác ý, cho nên Phật định nghĩa nghiệp là tác ý. Khi đã tác ý, theo hướng nghiệp thiện hay ác, thì tức là ta đã tạo nghiệp thiện hay ác rồi. Người bình thường không hiểu cơ chế vận hành của nghiệp cho nên rất hay xem thường, thậm chí ngay đối với lời nói, họ cũng nói một cách vô tâm: lời nói bay đi, lời nói vô bằng. Không biết rằng, ngay những ý nghĩ thoáng qua đầu chúng ta còn là nghiệp, huống hồ là lời nói. Có lẽ, vì để răn dạy người ta, đừng nên coi thường sự bất thiện nơi lời nói,蠦#273;ạo Phật phân tích có tới bốn điều bất thiện nơi lời nói: nói dối, nói ác, nói chia rẽ và nói vô nghĩa, còn sự bất thiện nơi thân thì chỉ có ba là sát sanh, lấy của không cho và tà dâm, còn sự bất thiện nơi tâm cũng chỉ có ba là tham, sân và si hay tà kiến.
VẤN ĐỀ CỘNG NGHIỆP
Nghiệp là sức mạnh lớn, khi nó là cộng nghiệp của một số đông người vì không phải một mà là một số đông người tạo ra nó, và số đông ấy có thể là cả loài người, cả một quốc gia, dân tộc hay một vùng, một địa phương.
Cộng nghiệp của cả một dân tộc đan xen với biệt nghiệp của từng cá nhân khiến cho cơ chế vận hành của nghiệp khá phức tạp, mà chỉ có bậc Thánh như Phật mới hiểu được tất cả ngọn nghành chi tiết.
Trong kinh chép lời Phật: “Với thiên nhãn thuần tịnh, vượt xa tầm nhìn loài người, Ta thấy chúng sanh chết và tái sanh như thế nào, Ta thấy những người cao quý và kẻ nghèo hèn, kẻ xuất sắc và kẻ bần tiện, mỗi người dều theo nghiệp của mình tạo ra mà có được thân phận hạnh phúc hay bất hạnh”.
(Chuyển dịch từ bản tiếng Anh: “The Tibetan Book of Living and Dying”, Sogyal Rinpoche, tr.92)
Chúng ta không có được thiên nhãn thanh tịnh để có thể được như Phật nắm bắt được tất cả cơ chế vận hành phức tạp của nghiệp, nhưng tối thiểu, chúng ta cũng biết được đại khái, nhưng rất là đúng đắn: “Ở hiền gặp lành, gieo gió gặt bão”.
Đó là sự minh triết của nhân dân Việt Nam, mà tổ tiên, cha ông đã tin theo đạo Phật gần hai mươi thế kỷ nay rồi, khiến cho một thuyết quan trọng và phức tạp như thuyết nghiệp ảnh hưởng đến tâm lý của dân ta đến nỗi, mỗi lần có sự cố bất hạnh xảy ra cho một người, một gia đình hay thậm chí cả một vùng, chúng ta buột mồm nói: “Tội nghiệp”. Đó là tội của nghiệp, nghiệp báo của từng người và là nghiệp báo chung, gọi là cộng nghiệp của số đông.
Nghiệp chính là quy luật nhân quả tác động trong phạm vi của nhân sinh. Đạo Phật nói quả nào nhân ấy. Một khi quả chín mùi và xảy ra, thì chúng ta biết đó không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả hợp thành của những nhân duyên đã từng được tạo ra và nay chín mùi.
Nhưng đạo Phật không nói một cách máy móc: nhân nào quả ấy.
Vì sao? Vì hằng ngày chúng ta không ngừng tạo nghiệp bằng ý nghĩ, lời và thân hành động. Nghiệp này tiếp nối nghiệp kia, nghiệp sau tác động trở lại nghiệp trước v.v…
Chính vì vậy mà đạo Phật không nói số mệnh hay số phận, mà nói bất định nghiệp và chuyển nghiệp. Đó là ranh giới phân biệt giữa Phật giáo và các tôn giáo khác, kể cả với Ấn Độ giáo khá gần gũi với Phật giáo, vì Ấn Độ giáo cũng nói nghiệp (Karma).
Dẫn nghiệp hay còn gọi là năng sanh nghiệp chỉ là những loại nghiệp có cường độ mạnh, quyết định hướng tái sanh của một chúng sanh. Thí dụ tất cả chúng ta ở đây đều là người, chúng ta biết chắc là trong đời trước chúng ta đã tạo ra dẫn nghiệp (hay tái sanh nghiệp) khiến chúng ta có được thân phận người, nhưng giữa chúng ta ở đây thôi, trong phạm vi cái phòng này đã có bao nhiêu sai biệt như già và trẻ, khoẻ và yếu, nam và nữ, đẹp và xấu, và mỗi người chúng ta đều là thành viên của mỗi gia đình khác nhau, với những cảnh ngộ khác nhau. Do vậy, ngoài dẫn nghiệp quyết định thân phận là người của chúng ta, chúng ta còn tạo ra một loại nghiệp nữa, có cường độ yếu hơn dẫn nghiệp mà sách Phật gọi là mãn nghiệp (sách tiếng Anh dịch là supportive karma), cũng có sách khác dịch là năng trì nghiệp.
KHÁI NIỆM MÃN NGHIỆP
Mãn nghiệp hay năng trì nghiệp giải thích vì sao cũng là một thân phận người mà có người hạnh phúc, người bất hạnh, người sang kẻ nghèo hèn, người thì có uy tín nói ai cũng theo, trái lại có người nói rất giỏi nhưng không ai tin, người đẹp, kẻ xấu xí, có cô gái đẹp lại lấy phải ông chồng xấu xí, lại có anh chồng xấu xí lại được người vợ đẹp sánh Hằng Nga tái thế .v.v…Sao lại có những chuyện như vậy? Tất cả những chuyện sai biệt như vậy đều là quả báo của mãn nghiệp hay là năng trì nghiệp.
Một câu hỏi: Loại mãn nghiệp này là bất khả kháng hay là có thể chuyển được? Xin trả lời: Thuyết nghiệp của Phật giáo là bất định nghiệp, là nghiệp có thể chuyển. Đã có bao nhiêu người sinh ra với sức khoẻ rất yếu nhưng nhờ dày công luyện tập mà trở thành lực sĩ. Bác sĩ Nguyễn Khắc Việt chỉ có 1/3 lá phổi mà sống đến tuổi hơn 80. Triết ra Đức rất nổi tiếng là Kant, vốn lúc bé rất ốm yếu nhưng nhờ sinh hoạt, làm việc rất đều đặn và có giờ giấc mà sống rất thọ…
Có thể giới phụ nữ thấy rõ khả năng chuyển nghiệp hơn nam giới chúng ta nữa. Vì nhờ ăn uống có chế độ và luyện tập siêng năng, người phụ nữ béo phì có thể trở thành mảnh mai, người phụ nữ gầy có thể trở thành có da có thịt, rồi lại thêm phấn son vào nữa.v.v…thì xấu cũng thành đẹp, hấp dẫn.
KHÁI NIỆM NĂNG TIÊU NGHIỆP.
Vì vậy mà Phật giáo đưa ra khái niệm gọi là năng tiêu nghiệp mà sách Anh ngữ có khi dịch là counteractive karma hay là impeding karma. Loại nghiệp này tuỳ thuộc vào tình hình mà có thể là tốt hay xấu.
Có thể đưa ra những ví dụ sau đây để minh hoạ: Một người sinh ra có tư chất thông minh, nói theo danh từ khoa học hiện nay là có gen thông minh, nhưng người đó lai sinh ra trong một gia đình giàu có, được cha mẹ nuông chiù, cho nên không chịu học hành, chỉ suốt ngày chơi bời khiến cho tính chất thông minh bẩm sinh của mình bị thui chột đi và cuối cùng anh ta trở thành một gã bất tài, vô dụng ở đời. Những loại nghiệp anh ta đã tạo ra đều thuộc loại năng tiêu nghiệp xấu và tiêu cực, huỷ hoại bẩm tính thông minh của anh. Bẩm tính thông minh đó cũng không phải ngẫu nhiên mà chính do anh ta nuôi dưỡng, huân đúc trong một đời trước.
Còn những ví dụ minh chứng các loại năng tiêu nghiệp tích cực thì rất nhiều. Chỉ cần dẫn chứng trường hợp của bác sĩ Nguyễn Khắc Viện hay bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng là đủ, vì ai cũng biết đều là chuyện việc thật, người thật.
DẪN NGHIỆP CÓ THỂ CHUYỂN ĐƯỢC KHÔNG? – NĂNG HUỶ NGHIỆP.
Đạo Phật có khái niệm “năng huỷ nghiệp” để giải thích những trường hợp tuy có người thọ mạng vẫn còn nghiệp lực của tái sanh vẫn còn, nhưng vì những người này trong một đời sống trước hay thậm chí trong đời sống này có tạo ra những nghiệp cực mạnh, có khả năng tiêu huỷ thân phận người của họ, thì họ vẫn có thể mất thân phận người như thường. Đó là những trường hợp chết đột tử hay bất đắc kỳ tử, như là trong các trường hợp chết vì thiên tai, chết vì tai nạn máy bay hay xe cộ. Người bình thường gọi đó là những trường hợp ngẫu nhiên bất hạnh, hay là số mệnh. Nhưng theo đạo Phật, đó là nghiệp, là tác động của một loại nghiệp gọi là năng huỷ nghiệp, nó tiêu huỷ thân phận người ngay khi người đó đang sống bình thường. Người đó trong một đời sống quá khứ hay thậm chí ngay cả trong đời này, đã tạo ra một loại nghiệp có cường độ mạnh đủ sức tiêu huỷ một dẫn nghiệp được tạo ra trước đó, quyết định thân phận người. Sách phật thường ví dụ tác động của loại nghiệp này như một cơn gió thổi tắt một ngọn đèn, tuy rằng ngọn đèn đó có thừa dầu và bấc.
KẾT LUẬN: NGƯỜI LÀ CHỦ NHÂN CỦA NGHIỆP
Nói tóm lại một câu, có thể dẫn chứng lời Phật trong Kinh “Tiểu Nghiệp Phân Biệt” (Trung Bộ III): “Người là chủ nhân của nghiệp, cũng là thừa tự của nghiệp…” Nghiệp do chính mình tạo ra và nghiệp trở lại chi phối mình. Cũng như Nguyễn Du nói rất đúng trong Kiều
“Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”.
Chính chúng ta không phải một thần linh nào hết quyết định đời sống chúng ta, và chúng ta quyết định nó bằng hoạt động hàng ngày, hàng giờ, phút trong cuộc sống. Nếu tâm chúng ta hướng thiện thì chúng ta tạo nghiệp thiện, hưởng quả báo thiện trong đời này và đời sau. Quy luật nghiệp báo là quy luật nhân quả, giản dị, không có gì khó hiểu, không cần phải mượn tới sức mạnh của thần linh hay sức mạnh mù quáng của số phận để giải thích. Thuyết nghiệp của đạo Phật không những là khoa học và công bằng, nó còn tôn vinh trách nhiệm và giá trị con ngươ詮 Nó thúc đẩy con người luôn hoàn thiện mình, sống đạo đức, có lý trí và theo lẽ phải. Nó nâng cao giá trị con người chứ không hạ thấp giá trị con người. Nó khích lệ con người hành động và tiến bộ. Nó không dạy con người sống tiêu cực và yếm thế. Thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu được lý giải đúng đắn và mọi người hiểu thấu và thực hành sẽ đem lại bao nhiêu điều tốt đẹp cho xã hội và đất nước chúng ta trong thiên niên kỷ mới sắp đến này. Quá khứ đã qua rồi, tương lai lại chưa đến, mọi người chúng ta hãy tỉnh giác và có ý thức sống trong hiện tại từng giờ, từng phút nghĩ lành, nói lành, làm lành. Đó chính là nghiệp, là thuyết nghiệp không phải trên bình diện lý thuyết mà là trong cuộc sống, trong thực hành.
Triết gia Mỹ William James, chắc là có chịu ảnh hưởng của thuyết nghiệp của đạo Phật đã nói câu:
“Chúng ta đang dệt đời bằng một sợi chỉ không tháo gỡ ra được” (Nous tissions notre vie d’un qui ne se défera pas).
Câu nói của Nguyễn Du và của William James sẽ hoàn toàn đúng với tinh thần thuyết nghiệp của đạo Phật, nếu thêm vào cái đuôi như sau:
“Đã mang lấy nghiệp vào thân,
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa”
Thêm cái đuôi: Tuy nghiệp đã mang vào thân rồi, nhưng vẫn gỡ ra được, nếu chúng ta biết ăn năn sửa chữa lỗi lầm, từ nay tránh mọi điều ác, làm mọi điều lành, giữ tâm ý luôn trong sạch, hướng thiện. Với câu của William James, chúng ta cũng thêm, chúng ta dệt đời chúng ta với sợi chỉ không phải không tháo gỡ được mà vẫn có thể tháo gỡ và dệt lại được, nếu…(như đoạn trên thêm vào câu của Nguyễn Du).
Và theo lời khuyên của hai vị, chúng ta hãy mang trên thân mình toàn là nghiệp lành, hãy dệt đời chúng ta toàn bằng nghiệp lành, nghiệp thiện trong mỗi ý nghĩ, lời nói và việc làm hằng ngày. Và nhất định, hạnh phúc sẽ đến với chúng tả trong cả đời này và đời sau.